Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

Các kiến trúc ảo hóa.


 Kiến trúc ảo hóa Hosted-based.

Còn gọi là kiến trúc hosted hypervisor, kiến trúc này sử dụng một lớp hypervisor chạy trên nền tảng hệ điều hành, sử dụng các dịch vụ được hệ điều hành cung cấp để phân chia tài nguyên tới các máy ảo. Nếu ta xem hypervisor này là một lớp phần mềm riêng biệt, thì các hệ điều hành khách của máy ảo sẽ nằm trên lớp thứ 3 so với phần cứng máy chủ.




Ta có thể thấy, một hệ thống ảo hóa sử dụng Mô hình Hosted-based được chia làm 4 lớp hoạt động như sau:

Nền tảng phần cứng: Bao gồm các thiết bị nhập xuất, thiết bị lưu trữ (Hdd, Ram), bộ vi xử lý CPU, và các thiết bị khác (các thiết bị mạng, vi xử lý đồ họa, âm thanh…)
Hệ điều hành Host: Hệ điều hành này thực hiện việc liên lạc trực tiếp với phần cứng, qua đó cung cấp các dịch vụ và chức năng thông qua hệ điều hành này.
Hệ thống virtual machine monitor (hypervisor) : Chạy trên nền tảng hệ điều hành Host, các hệ thống này lấy tài nguyên và dịch vụ do hệ điều hành host cung cấp, thực hiện việc quản lý, phân chia trên các tài nguyên này.
Các ứng dụng máy ảo: Sử dụng tài nguyên do hypervisor quản lý.
Mối liên lạc giữa phần cứng và trình điều khiển thiết bị trên hệ điều hành trong kiểu ảo hóa VMM được mô tả như sau :

Bước đầu tiên mô phỏng phần cứng: Lớp ảo hóa hypervisor sẽ tạo ra một phân vùng trên ổ đĩa cho các máy ảo. Phân vùng này bao gồm các phần cứng ảo như ổ đĩa, bộ nhớ….
Hypervisor xây dựng mối liên lạc giữa lớp ảo hóa với hệ điều hành: Khi một máy ảo truy xuất tài nguyên thì lớp hypervisor sẽ thay thế máy ảo đó gởi các yêu cầu tới hệ điều hành máy chủ để yêu cầu thực hiện,
Khi hệ điều hành nhận được các yêu cầu này. Nó liên lạc với trình điều khiển thiết bị phần cứng.
Các trình điều khiển thiết bị phần cứng liên lạc đến các phần cứng trên máy thực.
Quá trình này sẽ xảy ra ngược lại khi có các trả lời từ các phần cứng đến hệ điều hành chủ.
Một số hệ thống hypervisor dạng Hosted-base có thể kể đến như Vmware Server,Microsoft Virtual PC, máy ảo Java ..

Còn gọi là kiến trúc bare-metal hypervisor. Trong mô hình này, lớp phần mềm hypervisor chạy trực tiếp trên nền tảng phần cứng của máy chủ, không thông qua bất kì một hệ điều hành hay một nền tảng nào khác. Qua đó, các hypervisor này có khả năng điều khiển, kiểm soát phần cứng của máy chủ. Đồng thời, nó cũng có khả năng quản lý các hệ điều hành chạy trên nó. Nói cách khác, các hệ điều hành sẽ chạy trên một lớp nằm phía trên các hypervisor dạng bare-metal. Hình vẽ sau sẽ minh họa cụ thể hơn cho vấn đề này:

Ta có thể thấy, một hệ thống ảo hóa máy chủ sử dụng nền tảng Bare-metal hypervisor bao gồm 3 lớp chính:

Nền tảng phần cứng: Bao gồm các thiết bị nhập xuất, thiết bị lưu trữ (Hdd, Ram), bộ vi xử lý CPU, và các thiết bị khác (các thiết bị mạng, vi xử lý đồ họa, âm thanh…)
Lớp nền tảng ảo hóa Virtual Machine Monitor (còn gọi là hypervisor), thực hiện việc liên lạc trực tiếp với nền tảng phần cứng phía dưới, quản lý và phân phối tài nguyên cho các hệ điều hành khác nằm trên nó.
Các ứng dụng máy ảo: Các máy ảo này sẽ lấy tài nguyên từ phần cứng, thông qua sự cấp phát và quản lý của hypervisor.
Khi một hệ điều hành thực hiện truy xuất hoặc tương tác tài nguyên phần cứng trên hệ điều hành chủ thì công việc của một Hypervisor sẽ là:

Hypervisor mô phỏng phần cứng. nó làm cho các hệ điều hành tưởng rằng mình đang sử dụng tài nguyên vật lý của hệ thống thật.
Hypervisor liên lạc với các trình điều khiển thiết bị
Các trình điều khiển thiết bị phần cứng liên lạc trực tiếp đến phần cứng vật lý.
Mô hình Hypervisor - Base có 2 dạng là Monothic Hypervisor và Microkernel Hypervisor.

Một số ví dụ về các hệ thống Bare-metal hypervisor như là: Oracle VM, Vmware ESX Server, IBM's POWER Hypervisor (PowerVM), Microsoft's Hyper-V (xuất xưởng tháng 6 năm 2008), Citrix XenServer…

a. Monolithic Hypervisor.

Monolithic Hypervisor là một hệ điều hành máy chủ. Nó chứa những trình điều khiển (Driver) hoạt động phần cứng trong lớp Hypervisor để truy cập tài nguyên phần cứng bên dưới. Khi các hệ điều hành chạy trên các máy ảo truy cập phần cứng thì sẽ thông qua lớp trình điều khiển thiết bị của lớp hypervisor.

Mô hình này mang lại hiệu quả cao, nhưng cũng giống như bất kì các giải pháp khác, bên cạnh mặt ưu điểm thì nó cũng còn có những nhược điểm. Vì trong quá trình hoạt động, nếu lớp trình điều khiển thiết bị phần cứng của nó bị hư hỏng hay xuất hiện lỗi thì các máy ảo cài trên nó đều bị ảnh hưởng và nguy hại. Thêm vào đó là thị trường phần cứng ngày nay rất đa dạng, nhiều chủng loại và do nhiều nhà cung cấp khác nhau, nên trình điều khiển của Hypervisor trong loại ảo hóa này có thể sẽ không thể hỗ trợ điều khiển hoạt động của phần cứng này một cách đúng đắn và hiệu suất chắc chắn cũng sẽ không được như mong đợi. Một trình điều khiển không thể nào điều khiển tốt hoạt động của tất cả các thiết bị nên nó cũng có những thiết bị phần cứng không hỗ trợ. Những điều này cho thấy rằng việc phụ thuộc quá nhiều vào các loại thiết bị dẫn tới sự hạn chế việc phát triển công nghệ này.


b. Microkernelized Hypervisor.

Microkernelized Hypervisor là một kiểu ảo hóa giống như Monolithic Hypervisor. Điểm khác biệt giữa hai loại này là trong Microkernelized trình điều khiển thiết bị phần cứng bên dưới được cài trên một máy ảo và được gọi là trình điều khiển chính, trình điều khiển chính này tạo và quản lý các trình điều khiển con cho các máy ảo. Khi máy ảo có nhu cầu liên lạc với phần cứng thì trình điều khiển con sẽ liên lạc với trình điều khiển chính và trình điều khiển chính này sẽ chuyển yêu cầu xuống lớp Hypervisor để liên lạc với phần cứng.

1.4.3. Kiến trúc ảo hóa Hybrid.

Hybrid là một kiểu ảo hóa mới hơn và có nhiều ưu điểm. Trong đó lớp ảo hóa hypervisor chạy song song với hệ điều hành máy chủ. Tuy nhiên trong cấu trúc ảo hóa này, các máy chủ ảo vẫn phải đi qua hệ điều hành máy chủ để truy cập phần cứng nhưng khác biệt ở chỗ cả hệ điều hành máy chủ và các máy chủ ảo đều chạy trong chế độ hạt nhân. Khi một trong hệ điều hành máy chủ hoặc một máy chủ ảo cần xử lý tác vụ thì CPU sẽ phục vụ nhu cầu cho hệ điều hành máy chủ hoặc máy chủ ảo tương ứng. Lý do khiến Hyrbird nhanh hơn là lớp ảo hóa chạy trong chế độ hạt nhân (chạy song song với hệ điều hành), trái với Virtual Machine Monitor lớp ảo hóa chạy trong trong chế độ người dùng (chạy như một ứng dụng cài trên hệ điều hành).

Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2015

Mối quan hệ giữa server và Cloud Server


Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích những lý do tại sao Cloud Server chiếm ưu thế hơn so với VPS để các cá nhân, doanh nghiệp có được cái nhìn toàn diện hơn trước khi quyết định thực hiện sự thay đổi trong quản lý công nghệ thông tin.




Trước hết, cần hiểu về bản chất của VPS và Cloud Server


- VPS (Virtual Private Server) là máy chủ ảo được khởi tạo từ một máy chủ vật lý. Một máy chủ vật lý có thể chia ra thành nhiều VPS để cho nhiều khách hàng khác nhau sử dụng.

- Cloud Server là một máy chủ ảo được khởi tạo từ một hạ tầng ảo hoá bao gồm nhiều máy chủ vật lý liên kết với nhau. Mỗi máy chủ vật lý (hay cụm máy chủ vật lý) đóng một chức năng riêng biệt như lưu trữ, vận hành, sao lưu, dự phòng, tường lửa… và có thể tự động thay thế cho nhau nếu như một trong các máy chủ vật lý khác gặp sự cố.

1. Tự động dự phòng

Nếu bạn là người quản lý máy chủ, bạn có muốn nó hoạt động 24/7/365? Chắc chắn rồi! Sẵn sàng 100% là điều tất cả chúng ta đều mong muốn ở một chiếc máy chủ.

Nếu bạn dùng VPS thì điều này khó được như mong muốn vì bản chất VPS được khởi tạo và phụ thuộc hoàn toàn vào máy chủ vật lý, nên khi máy chủ vật lý gặp sự cố thì chắc chắn VPS của bạn cũng sẽ ngừng hoạt động. Mà đối với máy chủ vật lý thì có vô số lý do để nó ngừng hoạt động ngay cả khi bạn đã phòng vệ tốt nhất như: mất điện, hư hỏng phần cứng, thiên tai lũ lụt, virus…

Nếu bạn ở trên “mây” thì bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về tính sẵn sàng của nó vì bản chất Cloud Server không phụ thuộc vào một máy chủ vật lý riêng biệt nào cả. Khi một máy chủ vật lý trong cụm máy chủ tạo nên hạ tầng cloud gặp sự cố thì cơ chế dự phòng cho phép các máy chủ vật lý khác tự động thay thế, đảm bảo hệ thống luôn luôn sẵn sàng.

 2. Lợi ích của sự linh hoạt

Hiện tại bạn cần bao nhiêu tài nguyên cho dữ liệu của mình? Sau 1 năm nữa bạn sẽ cần bao nhiêu? 3 năm nữa? 5 năm nữa? …

Có lẽ bạn sẽ nhanh chóng trả lời được câu hỏi đầu tiên và khó có thể trả lời được những câu hỏi đằng sau. Thị trường, chính sách, công nghệ rồi sẽ phát triển và tác động đến hoạt động kinh doanh của bạn, bạn không thể biết được trong tương lai quy mô của mình sẽ mở rộng đến đâu. Đối với VPS, nguồn tài nguyên của 1 máy chủ vật lý là có giới hạn và phải chia sẻ cho nhiều khách hàng khác nhau, nếu bạn muốn nhiều hơn thì phải chuyển sang một máy chủ vật lý khác, điều này sẽ tốn thời gian, dịch vụ của bạn sẽ bị gián đoạn. Còn đối với Cloud Server, sự mở rộng hay thu hẹp tài nguyên là không giới hạn và thực hiện gần như là ngay lập tức. Do vậy, dù kế hoạch, chiến lược phát triển của bạn trong tương lai có như thế nào thì Cloud Server vẫn  đáp ứng được.

 3. Tài nguyên thực sự

Bạn có biết rằng khi sử dụng VPS thì lượng tài nguyên  mà bạn đã trả tiền để sử dụng vẫn không được đảm bảo? Vì nhiều VPS được đặt trên cùng một máy chủ vật lý, nên khi nhu cầu của một khách hàng trên cùng node với bạn cao hơn tài nguyên mà họ được phép sử dụng thì họ sẽ phải lấn sang VPS của bạn, máy chủ của bạn sẽ bị thiếu hụt tài nguyên, đặc biệt là trong những giờ cao điểm.

Với Cloud Server thì bạn không cần phải lo lắng đến điều đó vì nguồn tài nguyên của bạn không bị chia sẻ với bất kỳ ai và hoạt động của các máy chủ khác không hề ảnh hưởng đến Cloud Server  của bạn.

 4. Hiệu suất hoạt động

Không phải ngẫu nhiên mà “đám mây” lại trở thành xu thế trong thời đại của chúng ta và được ứng dụng ở hầu hết các lĩnh vực. Công nghệ điện toán đám mây dựa trên kiến trúc phân phối, tận dụng các nguồn tài nguyên nhàn rỗi nơi này để tập trung xử lý công việc đang có nhu cầu ở nơi khác. Tốc độ tính toán tuyệt vời đó là điều một VPS thông thường không thể cho bạn.

 5. An toàn dữ liệu

Một máy chủ vật lý dù có được bảo vệ tốt đến đâu cũng không thể tránh khỏi những nguy cơ vật lý dẫn đến hư hại, hỏng hóc và bạn có nguy cơ bị mất hết dữ liệu. Mặt khác, nếu virus tấn công vào VPS của khách hàng trên cùng node với bạn thì chắc chắn rằng VPS của bạn cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Nhưng một khi đã sử dụng công nghệ “đám mây” thực sự của các nhà cung cấp uy tín thì bạn có thể yên tâm rằng dữ liệu của bạn đều được backup online lẫn offline, nên việc hỏng ổ cứng, thiên tai lũ lụt, virus dù có xảy ra cũng không ảnh hưởng đến an toàn dữ liệu của bạn.

 6. Bảo mật tuyệt đối

Giữa các biện pháp bảo mật của một máy chủ vật lý và một hệ thống bảo mật của hạ tầng ảo hoá công nghệ cao thì bạn chọn cái nào?

 7. Quản lý dễ dàng

Lúc nào bạn cũng muốn kiểm soát máy chủ của mình nhưng không phải lúc nào bạn cũng có ở văn phòng. Ưu điểm của “đám mây” là bạn có thể truy cập từ bất cứ nơi đâu, dù là ở văn phòng, trên đường đi hay ở nhà bạn cũng có thể theo dõi Cloud Server. Các nhà cung cấp Cloud Server thường sẽ cung cấp các phương thức quản lý khác nhau cho bạn từ cổng website đến các giao thức API như Remote Desktop, SSH hay ngay cả trên các thiết bị di động. Đó là điều mà  các nhà cung cấp VPS không thể làm được.

8. Dùng bất cứ hệ điều hành mẫu nào mà bạn muốn

Đối với các VPS khác nhau trên cùng một máy chủ vật lý, bắt buộc bạn phải cùng dùng chung một hệ điều hành. Khi bạn muốn chuyển đổi hệ điều hành thì bạn cần phải được chuyển sang một máy chủ vật lý khác, hoạt động của VPS bạn sẽ bị gián đoạn.

Cloud Server cho phép tuỳ chọn hệ điều hành vì nó không phụ thuộc vào các Cloud Server khác. Muốn chuyển đổi từ Windows sang Linux hay bất cứ hệ điều hành nào khác? Việc này sẽ được thực hiện rất dễ dàng và nhanh chóng.

 9. Tiết kiệm

Sự linh hoạt trong mở rộng và thu hẹp tài nguyên của Cloud Server sẽ kéo theo lợi ích kinh tế cho bạn. Bạn chỉ phải chi trả cho nguồn tài nguyên bạn thực sự cần và sử dụng, tránh được sự lãng phí vô ích.

Khi điện toán đám mây đang dần trở nên quan trọng trong cuộc sống, bạn có muốn mình hoặc doanh nghiệp của mình đứng ngoài đà phát triển của xã hội?



So sánh giữa Cloud Server, VPS và Server riêng

Để thấy được những ưu điểm vượt trội của Cloud Server, hãy nghiên cứu bảng so sánh sau giữa hệ thống Cloud Server, VPS và Server riêng về các tính năng và ưu điểm của từng hệ thống:

Cloud Server (Cloud VPS):




    Tính sẵn sàng:
        Dữ liệu lưu trữ tập trung trên SAN, không lưu trên máy chủ vật lý.
        Dữ liệu được sao lưu (back-up) thường xuyên
        Nếu 1 server vật lý lỗi, Cloud server vẫn hoạt động bình thường và ổn định
     Khả năng mở rộng:
        Ngay lập tức khi có nhu cầu mở rộng.
        Có thể hạ cấp server nếu thấy không cần thiết sử dụng nhiều tài nguyên như vậy.
        Giúp tiết kiệm chi phí với khả năng sử dụng tài nguyên khá linh hoạt.
     Chi Phí:
        Chỉ phải trả cho những gì bạn sử dụng (CPU, RAM, băng thông…)
         Có thể mở rộng hoặc hạ thấp tài nguyên nếu cần để tiết kiệm chi phí

 VPS:

    Tính sẵn sàng:
        Chạy trên máy chủ vật lý
        Các server vật lý có thể treo vào các thời gian cao điểm dẫn đến các VPS có thể ngưng hoạt động.
     Khả năng mở rộng:
         Tài nguyên được ảo hóa và cung cấp cho người dùng.
        Do máy chủ vật lý không đủ tài nguyên nên không thể nâng cấp tài nguyên lớn là hạn chế lớn nhất
     Chi Phí:
         Trả tiền theo cấu hình VPS
        Sử dụng chung máy chủ khiến VPS bị phụ thuộc

Server riêng:

    Tính sẵn sàng:
         Dữ liệu được lưu trên máy chủ vật lý à rủi ro
        Bạn sẽ mất toàn bộ dữ liệu nếu 1 HDD bị hỏng.
        Tốn nhiều chi phí triển khai, backup
     Khả năng mở rộng:
         Để mở rộng phải mua thiết bị phần cứng chuyên dụng à phức tạp.
        Downtime Server cao khi nâng cấp.
        Chi phí phần cứng cao.
     Chi Phí:
        Trả tiền cho toàn bộ server vật lý.
        Phải trả chi phí hệ thống mạng, bảo trì máy chủ, điện… để duy trì server là tốn kém.

Khái niệm Cloud server

 Cloud server cung cấp một server riêng ảo giống như VPS nhưng được triển khai và phát triển trên nền tảng của công nghệ điện toán đám mây, do đó Cloud server kế thừa các ưu điểm vượt trội của công nghệ điện toán đám mây mà sẽ không thể có được khi sử dụng các VPS thông thường. 



     Cốt lõi của Cloud server là công nghệ điện toán đám mây. Bài viết này sẽ giới thiệu về Cloud Server (Cloud VPS), các kiến thức cần biết nhằm đem đến cho người đọc những hiểu biết trực quan nhất về Cloud Server.


1. Cloud server là gì?
Trong những năm gần đây, ngành công nghệ thông tin Internet càng ngày càng phát triển. Cùng với sự phát triển đó, các doanh nghiệp, tổ chức sẽ phải đầu tư chi phí lớn cho khâu mua mới, bảo trì và vận hành máy chủ (server). Tuy nhiên với sự ra đời của công nghệ điện toán đám mây (Cloud Computing), các tổ chức doanh nghiệp sẽ không phải đầu tư chi phí quá lớn cũng có thể sở hữu 1 chiếc server (máy chủ) để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh, phát triển thương mại, ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất.
Các tổ chức doanh nghiệp có thể lựa chọn các máy chủ ảo hay VPS (Virtual Private Server) để có thể sử dụng như 1 server riêng cho nhu cầu của doanh nghiệp. Tuy nhiên ngày nay các doanh nghiệp tổ chức có thể sử dụng công nghệ Cloud Server với hiệu quả và công nghệ cao hơn. Cloud server cung cấp một server riêng ảo giống như VPS nhưng được triển khai và phát triển trên nền tảng của công nghệ điện toán đám mây, do đó Cloud server kế thừa các ưu điểm vượt trội của công nghệ điện toán đám mây mà sẽ không thể có được khi sử dụng các VPS thông thường.

Bước khởi đầu của điện toán đám mây

     Khi lợi thế cạnh tranh nằm ở nền tảng công nghệ thì điện toán đám mây là một xu thế quan trọng. Một số doanh nghiệp trong nước nắm bắt được xu thế này và đang chuyển mình, mở lối cho doanh nghiệp Việt.

   Gõ từ tìm kiếm "máy chủ ảo" trên Google với phạm vi tìm kiếm tại Việt Nam, bạn sẽ thấy được khoảng chục kết quả tìm kiếm trả về, tương ứng với đó cũng có khoảng chục quảng cáo liên quan, gồm tên tuổi các công ty tương tự như kết quả SEO trên Google. Nói chung, kết quả tìm kiếm này khá mỹ mãn cho người dùng vì có được những chọn lựa dịch vụ cần thuê. Nhưng đối với một ngành công nghệ thì một chục kết quả tìm cùng với bằng đó quảng cáo cho thấy thị trường điện toán đám mây trong nước còn quá mới, chưa có tính cạnh tranh cao và là cơ hội để các công ty công nghệ, nhất là công ty khởi nghiệp đầu tư. PC World Vietnam đã tiếp cận một số doanh nghiệp trong nước sớm đầu tư vào điện toán đám mây để tìm hiểu sâu hơn về thị trường này.



Mới chỉ là bước khởi đầu

Trong vài năm qua, giới công nghệ luôn nhấn mạnh đến điện toán đám mây. Các quốc gia phát triển đã triển khai và ứng dụng điện toán đám mây ở mức phổ biến. Nhưng với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, có nền kinh tế vẫn còn dựa nhiều vào tiền mặt, thương mại điện tử mới chỉ chuyển mình thì việc người dùng chuyển mọi thứ lên một nền tảng hoàn toàn "vô hình" như điện toán đám mây vẫn còn gặp nhiều trở ngại.

Công ty PAVietnam mới chỉ xem mảng đầu tư vào điện toán đám mây như là giải pháp lấp chỗ trống cho dải sản phẩm/dịch vụ lâu nay của họ là phát triển trang web, tên miền và họ vẫn còn đang theo dõi thị trường. Còn công ty khởi nghiệp Long Vân 2 năm tuổi với định hướng cụ thể, hoàn toàn tập trung nguồn lực vào điện toán đám mây, cho thuê hạ tầng trung tâm dữ liệu (TTDL) và máy chủ ảo hướng đến doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sao Bắc Đẩu nhà cung cấp giải pháp cho doanh nghiệp quy mô lớn, cũng không làm ngơ khi từ năm 2011, họ đã vạch ra lộ trình phát triển cho mảng kinh doanh điện toán đám mây nhắm đến mảng ngân hàng, tổ chức tài chính và bảo hiểm. ODS (Online Data Services) với vai trò nhà phân phối nền tảng ảo hóa Parallels, cung cấp nền tảng cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ảo hóa cũng chỉ khoảng cách nay 3 năm... Theo ông Mạc Minh Hưng, phó giám đốc công ty cung cấp điện toán đám mây IDC Online có trụ sở tại Hà Nội, hiện trong nước chỉ mới có khoảng từ 5-7 doanh nghiệp thực sự kinh doanh điện toán đám mây mà thôi.

Việt Nam chỉ mới có một nửa đám mây


Google Docs, iCloud, Dropbox, Mediafire, game online và vô vàn ứng dụng trực tuyến mà chúng ta sử dụng bấy lâu nay đều là có bản chất là điện toán đám mây. Nhưng có một thứ chung: đa phần chúng đều từ nước ngoài, trừ vài cái tên (rất ít) như dịch vụ chia sẻ file Fshare (fshare.vn), Tên lửa (tenlua.vn)… Nhưng đây mới là một mặt của điện toán đám mây. Điện toán đám mây có thể được định nghĩa khác nhau, nhưng tạm chia thành 2 mảng lớn: nền tảng và ứng dụng.




Thị trường điện toán đám mây trong nước đến nay hầu như chỉ dừng lại ở một mảng – cung cấp dịch vụ nền tảng. Tại sao chỉ là một nửa? Theo ông Hưng, vì nhu cầu thực tế thị trường chưa đủ lớn để nhà cung cấp đầu tư, tức là số lượng khách hàng còn ít, trong khi khoản đầu tư khá lớn. Đó là chưa kể áp lực cạnh tranh của các phần mềm trực tuyến miễn phí ngoài nước và phần mềm trái phép. Song cũng đã có một số đơn vị trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm tự xây dựng điện toán đám mây cho mình... Họ thấy được điểm lợi của công nghệ mới: Quản lý tập trung, chi phí cho hạ tầng và ứng dụng giảm đi 40% – 50%.

Với thị trường điện toán đám mây trong nước, theo IDC Online ước tính chỉ ở mức từ 3-5 triệu USD/năm. Từ đó thấy mảng ứng dụng điện toán đám mây chưa được khai thác tại Việt Nam là rất lớn. Ví dụ, dịch vụ email chạy trên nền điện toán đám mây của doanh nghiệp phải chi trả cho nhà cung cấp khoảng 1 USD/tháng, cộng thêm một số dịch vụ cộng thêm như Note, Contact, SMS... khoảng 2 USD/tháng, trung bình một nhân viên/người dùng chi khoảng 3 USD/tháng cho ứng dụng điện toán đám mây. Với một thị trường khoảng 4 triệu người, doanh nghiệp có thể đạt doanh thu 12 triệu USD/tháng, là con số không hề nhỏ đối với một doanh nghiệp trong nước.

Ông Phạm Thành Nam, phó giám đốc kỹ thuật Sao Bắc Đẩu, chia sẻ một trong những lý do khiến doanh nghiệp Việt chưa đến với ứng dụng đám mây là vì đặc thù kinh doanh và thói quen của Việt Nam khác với nước ngoài. Lối suy nghĩ truyền thống, muốn giữ "tài sản" trong nhà và quan ngại đến việc phải chuyển dữ liệu kinh doanh nhạy cảm lên mây cũng là lý do. Một nguyên do khác còn ở phía các nhà phát triển ứng dụng trong nước. Ứng dụng Việt cho người tiêu dùng (không phải cho doanh nghiệp) mang dáng dấp "xuề xòa": chưa chỉn chu, hấp dẫn về giao diện, chưa mạnh mẽ và phong phú về tính năng, chưa đủ độ tin cậy nếu người dùng phải bỏ dữ liệu cá nhân lên đó. Thị trường outsource phần mềm tại Việt Nam từng ở giai đoạn bùng nổ và nay cũng có rất nhiều đơn hàng từ nước ngoài, nhưng phần mềm trong nước lại bị rơi vào cảnh "chợ chiều" vì thói quen dùng phần mềm lậu của chính người dùng. Thương mại điện tử trong nước cũng ở giai đoạn giao thoa, lai giữa giao dịch bằng tiền mặt và giao dịch trực tuyến qua hàng loạt dịch vụ thanh toán như Ngân Lượng, Bảo Kim, 123Pay… bên cạnh thẻ cào nạp tiền các loại. Những yếu tố trên có thể xem là một trong những rào cản đối với sự phát triển của thị trường ứng dụng điện toán đám mây trong nước

Tuy mảng ứng dụng cho đám mây hướng đến người dùng cuối chưa được nhiều doanh nghiệp phát triển trong nước chú trọng thì mảng ứng dụng cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMB) lại có những tín hiệu lạc quan hơn. Từ một công ty phát triển phần mềm kế toán cho doanh nghiệp Việt, MISA sớm nhận diện tiềm năng của điện toán đám mây và tập trung phát triển sản phẩm theo hướng này. Phần mềm quản trị doanh nghiệp hợp nhất AMIS.VN được MISA phát triển nên nền tảng điện toán đám mây. Đến nay, theo MISA, trong số khoảng 70.000 khách hàng trong khối doanh nghiệp, có đến 30.000 khách hàng đã chuyển sang AMIS.VN và công ty đặt chỉ tiêu tăng trưởng hàng năm 50% (Tham khảo: http://www.pcworld.com.vn/T1236749). Ngoài MISA, một số doanh nghiệp phần mềm khác cũng đang hướng đến đám mây và tập trung vào SMB như các PM kế toán của FAST, quản trị doanh nghiệp của ePacific, Lạc Việt, quản lý cửa hàng của EZ, HOSCO, quản trị doanh nghiệp của OneOffice, ASIA hay PM quản lý nhân sự của OOS (OOS.GHR), Hoàn Hảo, Thiên Hoàng (eHRM)...

Chi phí và hạ tầng của Điện toán đám mây

Chí phí và quản trị

Ở mặt ứng dụng là vậy, nhưng ở mặt cơ sở hạ tầng, nền tảng, điện toán đám mây lại cho thấy rõ thế mạnh của nó và các doanh nghiệp kinh doanh trong nước đang làm khá tốt mảng này. Theo ông Nam, hai yếu tố mà doanh nghiệp cân nhắc để sử dụng dịch vụ đám mây là: chi phí và quản trị. Rõ ràng, chi phí đầu tư ban đầu cho một trung tâm dữ liệu hay một máy chủ ảo là bằng 0 và thời gian triển khai cũng gần như bằng 0. Bên cạnh đó, quản trị hạ tầng công nghệ trong doanh nghiệp không phải là việc dễ dàng. Nhiều doanh nghiệp phải thuê cả đội ngũ chuyên viên để vận hành và quản trị hạ tầng của mình, phát sinh nhiều chi phí và phân tán nguồn lực, không tập trung được vào mảng kinh doanh chính. Nền tảng điện toán đám mây giải quyết nhanh gọn hai vướng mắc này, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp.




Hạ tầng công nghệ

Do điện toán đám mây còn khá mới trong nước nên phần lớn các công ty cung cấp dịch vụ không xây dựng trung tâm dữ liệu và hạ tầng riêng để cung cấp giải pháp đám mây cho khách hàng. Thay vào đó, họ thường thuê lại hạ tầng của các tập đoàn viễn thông lớn như FPT Telecom, VNPT, Vietel và VDC. Họ thuê rack máy chủ và băng thông, tận dụng cơ sở hạ tầng về tản nhiệt, điện dự phòng, quản lý cơ sở vật chất của các tập đoàn. Hoặc như ODS ngoài việc cho thuê giải pháp nền tảng Parallels, họ cũng xây dựng trung tâm dữ liệu riêng để cho các công ty cung cấp dịch vụ thuê. Cách thuê hạ tầng viễn thông như vậy vừa tiết kiệm chi phí đầu tư xây mới, vừa tận dụng được băng thông của từng tập đoàn, đưa ra chọn lựa cho khách hàng tuỳ vào họ sử dụng đường truyền của nhà mạng nào.

Đa phần các công ty sử dụng các nền tảng ảo hoá phổ biến hiện nay như VMWare (IDC Online, Long Vân), Parallels (Mắt Bão, Nhân Hoà) và một số nền tảng ảo hoá nguồn mở khác như OpenStack, Xen... Theo ông Văn của ODS, nền tảng Parallels phù hợp hơn cho đối tượng người dùng là doanh nghiệp vừa và nhỏ so với các nền tảng khác vì phí bản quyền rẻ và tính năng phù hợp. Tuy vậy, phí bản quyền về nền tảng ảo hoá lại hầu như không tác động gì nhiều đến giá thuê máy chủ. Điểm đáng nói ở đây là các nền tảng ảo hoá đều cho phép công ty cung cấp dịch vụ tính phí người dùng theo giờ nhưng hiện chưa có công ty nào triển khai (mà chỉ đưa vào kế hoạch trong tương lai).

Cho thuê máy chủ ảo ở trong nước như thế nào?






Máy chủ ảo VPS (virtual private server), trung tâm dữ liệu ảo hóa (virtual data center), thậm chí máy để bàn ảo hóa (virtual desktop) và nhiều giải pháp kèm theo như sao lưu dự phòng, cân bằng tải, quản trị… đa phần đều được các doanh nghiệp cung cấp đầy đủ. Thế mạnh của dịch vụ điện toán đám mây trong nước so với nước ngoài (như Amazon AWS, Microsoft Azure, IBM Cloud Computing, Google Compute Engine...) là những yếu tố dễ nhận thấy như: hỗ trợ dịch vụ rất tốt, không ảnh hưởng đường truyền Internet cáp quang quốc tế, băng thông cao (dĩ nhiên còn tùy vào nhà cung cấp dịch vụ đường truyền). Tuy vậy, giá cả của dịch vụ đám mây trong nước còn cao hơn gấp rưỡi so với các dịch vụ ở nước ngoài. Ví dụ, một thuê một máy chủ ảo VPS tại Việt Nam có cấu hình thấp nhất có mức giá trong khoảng 285.000 VNĐ/tháng (PAVietnam, chỉ áp dụng cho đăng ký 24 tháng), trong khi giá thuê một VPS của Digital Ocean 5 USD/tháng. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt chưa có đưa ra cách tính phí theo giờ như phần lớn dịch vụ nước ngoài, mà chỉ tính trọn giá theo tháng. Do vậy, các khách hàng thuê VPS với mục đích phát triển ứng dụng, thử nghiệm dịch vụ, demo sản phẩm… trong khoảng thời gian ngắn và không cố định thường chuyển sang dùng dịch vụ nước ngoài.

Giá rẻ, rất sát với nhu cầu (bật VPS mới tính tiền theo giờ) và thanh toán dễ dàng, thuận tiện là điểm mạnh của dịch vụ đám mây nước ngoài. Lý giải cho việc chênh lệch giá khá cao như vậy, ông Nam cho rằng do những nhà cung cấp nước ngoài triển khai trung tâm dữ liệu của họ với quy mô rất lớn và nhiều nơi, do đó giảm được giá thành thuê mỗi VPS. So với Việt Nam, trung tâm dữ liệu nhỏ nên chi phí vận hành cao, đẩy giá thuê VPS cao.

Tuy vậy, đặc thù của lối kinh doanh Việt Nam lại có lợi thế riêng. Ngoài việc có băng thông trong nước cao và hỗ trợ kỹ thuật 24/7, ông Huỳnh Trọng Văn, CEO của ODS, là nhà cung cấp nền tảng cho các công ty kinh doanh dịch vụ đám mây, trong đó có Mắt Bão, Nhân Hòa... cho biết các công ty cung cấp dịch vụ đám mây thường bám sát theo nhu cầu của khách hàng và báo giá phù hợp với nhu cầu đó. Đồng thời, vì quy mô nhỏ, không có nhiều khách hàng như những hãng nước ngoài nên việc quản lí cũng đơn giản hơn. Ví dụ, với Digital Ocean, VPS 5 USD/tháng có ngưỡng băng thông 1TB/tháng, nếu bạn dùng quá mức này, hệ thống tự động ngắt kết nối đến VPS. Nhưng với nhà cung cấp trong nước, hầu như không quy định về ngưỡng băng thông vì đơn giản là nhân viên kỹ thuật sẽ "du di" cho khách hàng để giữ chân. Hầu hết các nhà cung cấp trong nước đều kèm những dịch vụ về quản lý (như cơ sở dữ liệu, phát triển website...) cho khách hàng nếu có nhu cầu ngay trên nền tảng hạ tầng mà họ thuê, trong khi công ty nước ngoài thường không làm vậy. Do đó, nếu thuê VPS ở nước ngoài, doanh nghiệp vẫn cần có thêm một đội ngũ làm CNTT.

Một lí do mà nhiều doanh nghiệp còn ngại chuyển lên mây là làm thế nào di chuyển dữ liệu từ hệ thống cũ lên đám mây mà không làm gián đoạn việc kinh doanh, quản lý. Tại điểm này, các công ty cung cấp dịch vụ đám mây trong nước mới thể hiện đúng giá trị của họ so với các dịch vụ ngoài nước. Họ sẵn sàng hỗ trợ và đưa ra các mô hình điện toán đám mây phù hợp, như đám mây lai (hybrid cloud) khi kết hợp giữa 2 hệ thống máy chủ đặt tại doanh nghiệp và máy chủ trên mây và hỗ trợ xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình chuyển đổi hạ tầng công nghệ của doanh nghiệp.

Điện toán đám mây với doanh nghiệp vừa và nhỏ



Đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam dựa rất nhiều vào doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMB). Theo cổng thông tin của Bộ Tư pháp, SMB trong nước sử dụng đến 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% tổng thu nhập quốc dân (GDP). Long Vân và IDC Online có khoảng 1.000 khách hàng, đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy vậy, theo ông Nam, Sao Bắc Đẩu không định nghĩa SMB theo cách thường nghĩ là dựa trên kích thước, nhân sự của doanh nghiệp, mà dựa trên dòng tiền vào/ra, doanh thu và băng thông Internet mà doanh nghiệp sử dụng. Ví dụ, một doanh nghiệp làm về thương mại điện tử với khoảng 10 nhân viên, nhưng số lượng khách hàng và lượng truy cập trang web thương mại điện tử của doanh nghiệp đó cao, thì đó vẫn được cho là doanh nghiệp lớn (không đưa ra mức doanh thu hay băng thông cụ thể).




Do vậy, doanh nghiệp SMB có thể nói là thị trường đầy tiềm năng tại Việt Nam đối với điện toán đám mây. Hai lí do quan trọng để SMB đến với điện toán đám mây như đề cập trên là: chi phí và quản lý hạ tầng công nghệ, cũng là 2 vấn đề lớn mà SMB Việt Nam đang đối mặt.

Đồng thời, một xu hướng tiêu dùng khác tác động đến việc tiếp cận đến điện toán đám mây là giá trị của dịch vụ đang dần lớn hơn giá trị sản phẩm. Người dùng và doanh nghiệp đang chi nhiều tiền hơn cho dịch vụ, ngược lại chi ít tiền hơn cho sản phẩm nói chung, không riêng gì công nghệ. Microsoft không còn bán bản Microsoft Office được đóng gói (như Office 2010, 2013...), ở mức giá cao nữa mà chuyển sang bộ Office 365 tính phí theo tháng với mức giá dễ chấp nhận hơn (5 USD/tháng cho bản Business Essentials). Điện toán đám mây cũng vậy, doanh nghiệp không phải đầu tư một hệ thống máy chủ hay TTDL với số tiền lớn và rủi ro cao, mà họ có thể trả theo từng tháng, với số tiền ít hơn nhiều và rủi ro thấp. Vì vậy, SMB dễ dàng tập trung nguồn lực vào kinh doanh. Đó là chưa kể khả năng linh động trong quản lý, theo dõi và làm việc từ xa trên mọi thiết bị có kết nối Internet.

Điện toán đám mây xoá bỏ không gian, là bàn đạp thuận lợi cho SMB, doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như những doanh nghiệp lớn muốn tiết giảm chí phí đầu tư và quản lý hạ tầng. Xu hướng lên điện toán đám mây là rõ ràng, vấn đề còn lại tuỳ thuộc vào doanh nghiệp có sẵn lòng mạnh dạn tiến lên mây hay không mà thôi. . Long Vân và IDC Online có khoảng 1.000 khách hàng, đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy vậy, theo ông Nam, Sao Bắc Đẩu không định nghĩa SMB theo cách thường nghĩ là dựa trên kích thước, nhân sự của doanh nghiệp, mà dựa trên dòng tiền vào/ra, doanh thu và băng thông Internet mà doanh nghiệp sử dụng. Ví dụ, một doanh nghiệp làm về thương mại điện tử với khoảng 10 nhân viên, nhưng số lượng khách hàng và lượng truy cập trang web thương mại điện tử của doanh nghiệp đó cao, thì đó vẫn được cho là doanh nghiệp lớn (không đưa ra mức doanh thu hay băng thông cụ thể).




Do vậy, doanh nghiệp SMB có thể nói là thị trường đầy tiềm năng tại Việt Nam đối với điện toán đám mây. Hai lí do quan trọng để SMB đến với điện toán đám mây như đề cập trên là: chi phí và quản lý hạ tầng công nghệ, cũng là 2 vấn đề lớn mà SMB Việt Nam đang đối mặt.

Đồng thời, một xu hướng tiêu dùng khác tác động đến việc tiếp cận đến điện toán đám mây là giá trị của dịch vụ đang dần lớn hơn giá trị sản phẩm. Người dùng và doanh nghiệp đang chi nhiều tiền hơn cho dịch vụ, ngược lại chi ít tiền hơn cho sản phẩm nói chung, không riêng gì công nghệ. Microsoft không còn bán bản Microsoft Office được đóng gói (như Office 2010, 2013...), ở mức giá cao nữa mà chuyển sang bộ Office 365 tính phí theo tháng với mức giá dễ chấp nhận hơn (5 USD/tháng cho bản Business Essentials). Điện toán đám mây cũng vậy, doanh nghiệp không phải đầu tư một hệ thống máy chủ hay TTDL với số tiền lớn và rủi ro cao, mà họ có thể trả theo từng tháng, với số tiền ít hơn nhiều và rủi ro thấp. Vì vậy, SMB dễ dàng tập trung nguồn lực vào kinh doanh. Đó là chưa kể khả năng linh động trong quản lý, theo dõi và làm việc từ xa trên mọi thiết bị có kết nối Internet.

Điện toán đám mây xoá bỏ không gian, là bàn đạp thuận lợi cho SMB, doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như những doanh nghiệp lớn muốn tiết giảm chí phí đầu tư và quản lý hạ tầng. Xu hướng lên điện toán đám mây là rõ ràng, vấn đề còn lại tuỳ thuộc vào doanh nghiệp có sẵn lòng mạnh dạn tiến lên mây hay không mà thôi. 

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Các cấp của tên miền



Tên miền cấp 1 (top level domain) những tên miền loại này có đặc điểm là chỉ có 1 dấu chấm “.” như: 7pop.net, tuoitre.vn, google.com, digistar.vn, …





Tên miền cấp 2 (second level domain) là các tên miền có 2 chấm như: thanhnien.com.vn, nvhtn.org.vn, digistar.com.vn, …

Subdomain: còn gọi là tên miền con, là những tên miền được tạo thêm từ tên miền cấp 1 hoặc tên miền cấp 2.

Lưu ý: cần phân biệt subdomain với Tên miền cấp 2, tên miền cấp 2 thường có đuôi của tên miền phổ biến và theo sau đó là đuôi của tên miền quốc gia